Văn phòng : KĐTMới Yên Hòa-Phường Yên Hòa-Quận Cầu Giấy-Hà Nội. Di Động: 01688.998.998
Thứ Tư, 13 tháng 6, 2012
Thứ Bảy, 28 tháng 4, 2012
Thứ Bảy, 14 tháng 4, 2012
Thứ Năm, 12 tháng 4, 2012
VinaFacade-Chuyên Thiết kế thi công các sản phẩm Kính Xây Dựng
Hiện tại Hòa đang làm việc cho công ty CP VINAFACADE,Chuyên thiết kế,thi công các sản phẩm về Kính Xây dựng.
Bạn nào có nhu cầu làm các sản phẩm về Kính xây dựng thì liên hệ với Hòa nhé.
SDT: 01688.998.998
Giới thiệu công ty:
Công ty cổ phần VinaFacade là một công ty mới thành lập dưới hình thức liên doanh Việt Nam - Malayxia. Ý đồ cho việc thành lập một công ty cung cấp hệ sản phẩm mặt tiền công trình (hay còn gọi là vách kính) tại Việt Nam là để nhằm khai thác thị trường bất động sản luôn luôn phát triển cũng là để chớp cơ hội giới thiệu tới thị trường Việt Nam công nghệ mới nhất về thiết kế, quản lý dự án và lắp đặt hệ sản phẩm vách kính.
VinaFacade cung cấp chủ yếu gồm thiết kế, gia công, quản lý dự án và lắp đặt hệ sản phẩm vách kính. Các cổ đông của VinaFacade gồm:
- Tổng công ty Viglacera.
- Công ty Facade Treatment Engineering Sdn Bhd.
- Công ty cổ phần kính Viglacera Đáp Cầu
BÁO GIÁ CHUYỂN BĂNG VIDEO MINI SANG VCD + SCAN ẢNH
PHÒNG DỰNG PHIM CENTURY MEDIA
BÁO GIÁ CHUYỂN BĂNG VIDEO SANG VCD+SCAN ẢNH
I,CHUYỂN BĂNG VIDEO MINI DV(BĂNG VIDEO MINI) SANG VCD,DVD
1 băng = 85.000đ/1VCD
2 băng = 70.000đ/1 VCD
5 băng = 60.000đ/1 VCD
Từ Băng thứ 10 trở lên giá = 30.000đ/1VCD
Giá trên đã bao gồm đĩa + bao đựng đĩa.
II,SCAN ẢNH
1 Ảnh=1000đ/Cái
MỌI CHI TIẾT XIN QUÝ KHÁCH VUI LÒNG LIÊN HỆ :
ĐIỆN THOẠI: 01688.998.998 - ANH HÒA
ĐỊA CHỈ: Nhà HH1-Khu ĐTM Yên Hòa-Phường Yên Hòa-Quận Cầu Giấy-Hà Nội.
Thời gian làm việc 24/24 khi cần quý khách cứ gọi .
BÁO GIÁ CHUYỂN BĂNG VIDEO SANG VCD+SCAN ẢNH
I,CHUYỂN BĂNG VIDEO MINI DV(BĂNG VIDEO MINI) SANG VCD,DVD
1 băng = 85.000đ/1VCD
2 băng = 70.000đ/1 VCD
5 băng = 60.000đ/1 VCD
Từ Băng thứ 10 trở lên giá = 30.000đ/1VCD
Giá trên đã bao gồm đĩa + bao đựng đĩa.
II,SCAN ẢNH
1 Ảnh=1000đ/Cái
MỌI CHI TIẾT XIN QUÝ KHÁCH VUI LÒNG LIÊN HỆ :
ĐIỆN THOẠI: 01688.998.998 - ANH HÒA
ĐỊA CHỈ: Nhà HH1-Khu ĐTM Yên Hòa-Phường Yên Hòa-Quận Cầu Giấy-Hà Nội.
Thời gian làm việc 24/24 khi cần quý khách cứ gọi .
Thứ Tư, 28 tháng 3, 2012
Cáo phó
Gia đình chúng tôi vô cùng thương tiếc báo tin
Bà Vương Thị Bình,Sinh ngày 8/4/1956
Nguyên quán : Di Trạch-Hoài Đức-Hà Tây
Thường trú: Cầu Giấy,Hà Nội
Sau một thời gian bệnh nặng ,Gia đình con cháu và các bác sĩ đã tận tình cứu chữa.Vì bệnh quá nặng, đã từ trần vào hồi 7 giờ 13 phút ngày 28/3/2012.
Hưởng thọ 57 tuổi.
Lễ Viếng: từ 9h-11h Sáng ngày 29/3/2012.
Địa điểm:Tại nhà tang lễ Bệnh viện 19-8 Bộ Công An,Đường Trần Bình,Mai Dịch,Cầu Giấy,Hà Nội.
Trân trọng kính báo.
Chồng:Ngô Quang Chiến
Và các con: Ngô Quang Thắng,Ngô Quang Hòa.
Bà Vương Thị Bình,Sinh ngày 8/4/1956
Nguyên quán : Di Trạch-Hoài Đức-Hà Tây
Thường trú: Cầu Giấy,Hà Nội
Sau một thời gian bệnh nặng ,Gia đình con cháu và các bác sĩ đã tận tình cứu chữa.Vì bệnh quá nặng, đã từ trần vào hồi 7 giờ 13 phút ngày 28/3/2012.
Hưởng thọ 57 tuổi.
Lễ Viếng: từ 9h-11h Sáng ngày 29/3/2012.
Địa điểm:Tại nhà tang lễ Bệnh viện 19-8 Bộ Công An,Đường Trần Bình,Mai Dịch,Cầu Giấy,Hà Nội.
Trân trọng kính báo.
Chồng:Ngô Quang Chiến
Và các con: Ngô Quang Thắng,Ngô Quang Hòa.
Thứ Ba, 17 tháng 1, 2012
Những quan niệm thường gặp về giới nam, giới nữ
Bài viết từ trang Web: http://www.ykhoanet.com
Xa xưa trong lịch sử, mỗi giống người đều có thời kỳ dài sống trong chế độ mẫu hệ, con cái thuộc về mẹ và theo họ mẹ. Sau đó, do nhu cầu hình thành đơn vị gia đình nhỏ và do phải đi kiếm ăn xa, người đàn ông dần chiếm ưu thế và chế độ phụ hệ hình thành. Qua bao thế kỷ, xã hội thay đổi và mỗi con người cũng thay đổi theo.
Qua các giai đoạn lịch sử, do sự thay đổi về hoàn cảnh chính trị, kinh tế nên vai trò của giới nam và giới nữ trong gia đình và xã hội cũng thay đổi. Do đó, quan niệm về tính cách, quy tắc xử thế của mỗi giới cũng biến đổi không ngừng.
Xã hội càng văn minh, người ta càng công nhận quyền bình đẳng của hai giới. Trong phân công lao động, vai trò của hai giới xích lại gần nhau, hệ thống giáo dục cũng không phân biệt giới tính. Về nguyên tắc, ngày nay mỗi một con người, dù nam hay nữ, đều có điều kiện phát triển toàn diện hơn, không phải bó hẹp trong các khuôn mẫu cổ xưa về đàn ông và đàn bà nữa.
Tuy nhiên, các quy định, quy tắc cũ xã hội vẫn còn để lại những "dư âm" của nó, ảnh hưởng đến sự phát triển của mỗi con người. Để hiểu được tác động đó, chúng ta hãy cùng nhau theo dõi cuộc đời của hai con người, một nữ, một nam.
Bé Đức và bé Hằng sinh ra cùng ngày, giờ, tháng, năm ở cùng một nhà hộ sinh. Gia đình hai em là hai gia dình bình thường trong xã hội, không có gì khác biệt nhau. Quan niệm nuôi dạy con cái của hai gia đình là những quan niệm điển hình trong xã hội. Hai em lớn lên như thế nào?
Khi bắt đầu biết nghĩ, Đức và Hằng thấy rằng trong gia đình có một số điểm khác biệt nho nhỏ trong việc dạy con trai và con gái. Chẳng hạn, hễ Đức khóc nhè là bố mẹ bảo: “Con trai không khóc nhè. Xấu lắm”. Còn đối với Hằng thì bố mẹ chỉ tặc lưỡi: “Con gái nhõng nhẽo thế đấy”. Nhìn chị em gái, Đức ấm ức nghĩ, tại sao con gái thì được khóc mà con trai lại không. Tuy nhiên, dần dần cậu bé cũng học được cách giữ kín cảm xúc để khỏi bị coi là “đồ con gái”. Hằng thì biết rằng đó chỉ là "nhõng nhẽo kiểu con gái" thôi nên đôi khi cũng lợi dụng hờn dỗi để vòi vĩnh bố mẹ.
Lớn lên một chút hai em học được cách cư xử cho ra con trai hay con gái. Vốn tính hiếu động, cả Đức, Hằng đều vui đùa, chạy nhảy, hò hét vang trời. Người lớn bảo Hằng: “Phải nhẹ nhàng chứ. Con gái gì mà như quỷ” khiến cho em dần dần trầm tính lại, sợ mình không giống con gái. Bố mẹ Đức lại tự hào khoe với mọi người: “Đúng là con trai nó hiếu động lắm bác ạ”, làm cậu bé nghĩ chắc phải nghịch ngợm thật nhiều thì mới là con trai.
Đi học về, Hằng được mẹ bảo vào bếp giúp việc nhà. Nhìn đám trẻ chơi ngoài sân cô bé thèm lắm nhưng thương mẹ nên đành nhịn. Đức thì ngược lại, học về là quăng sách vở chạy đi chơi, tới giờ cơm mới phải về. Đương nhiên cậu bé nghĩ cơm nước nhà cửa chẳng phải việc của mình, cha mẹ vẫn bảo đó là việc của con gái mà.
Đến tuổi cập kê, cả Đức và Hằng đều quan tâm đến các bạn khác giới. Bố mẹ Hằng liền dạy cô phải ý tứ, không đi chơi về muộn, phải cẩn thận với bọn con trai. Có thể Hằng là một cô gái bản chất hồn nhiên và bạo dạn, nhưng giờ đây cô phải học cách khoác lên mình chiếc áo thiếu nữ, sao cho ra dáng nhu mì, hiền thục, đoan trang. Đức thì chẳng thấy ai dạy phải ý tứ bao giờ, chỉ thấy luôn bị khích phải dũng cảm lên, đừng có “nhát như con gái”, nên lúc nào cũng phải lên gân ra vẻ ta đây đàn ông mạnh mẽ.
Đức và Hằng đều được nghe vô số điều thiên hạ nói về con trai, con gái. Con gái thì phải biết chờ đợi, nếu đến làm quen hay gần gũi bạn trai thì là “trơ tráo”, “cọc đi tìm trâu”. Con gái mà không biết giữ gìn trinh tiết thì là “đồ bỏ đi”. Trái lại, con trai thì phải biết “tán gái”, “trồng cây si”, “nói những lời có cánh”. Con trai có nhu cầu sinh dục cao, nên hay “ép bạn gái chiều”. Con trai thích “chơi bời cho có kinh nghiệm”. Những quan niệm đó của xã hội dần dần ăn vào tiềm thức của Đức và Hằng cũng như bao thanh thiếu niên khác. Hội bạn gái của Hằng suốt ngày nói chuyện cô này phải xử sự thế nào khi có một anh chàng nào đó theo đuổi, cô kia rất thích một anh chàng nhưng chẳng biết phải làm gì, cô khác nói không biết nên chiều người yêu hay là nên giữ. Hội bạn của Đức thì nhiều khi ba hoa về khả năng quyến rũ con gái, về việc chinh phục một cô này, về sắc đẹp cô khác, có khi còn rủ nhau đi “chơi bời” đâu đó.
Đức và Hằng gặp gỡ và có cảm tình với nhau, "tình trong như đã mặt ngoài còn e". Đức đêm nào cũng tự nhủ: “Ngày mai nhất định mình phải tỏ tình với cô ấy. Biết nói thế nào, nói ở đâu bây giờ?” rồi cứ đến lúc gặp là lại sợ, không biết nói gì. Sứ mệnh tỏ tình đeo nặng khiến cho cậu mất ăn mất ngủ. Hằng thì phải chờ đợi, không dám tỏ ý gì vì “con gái thì phải giữ giá”, nên cũng khổ sở không kém.
Rồi cũng đến lúc họ trở thành người yêu. Đi chơi đâu Đức cũng rút tiền ra trả, vì “phải ga lăng mới đáng mặt đàn ông”, mặc dù nhiều khi chàng phải vay tiền chúng bạn. Hằng nhìn người yêu lúc nào cũng trả tiền thì thương, nhưng không dám trả tiền vì sợ Đức ngượng. Hai người gần gũi nhau, và có những lúc họ cảm thấy rất hấp dẫn nhau về thể xác. Hằng vội gạt ý nghĩ ấy đi, vì cô đã khắc sâu quan niệm những cái đó là “không trong trắng”. Còn Đức nghĩ như thế là bình thường, vì xưa nay bạn bè cậu vẫn nói chuyện ấy mà. Dần dà thân thiết nhau lắm rồi, Đức bắt đầu muốn nài Hằng “đi xa hơn nữa”, một phần vì nhu cầu của chàng, một phần vì cái kiêu hãnh “đàn ông là như thế mà”. Hằng thì sợ rằng biết đâu mình sẽ trở thành đồ bỏ đi thật. Bình thường cô vẫn luôn dịu dàng với người yêu, nên tự nhiên lại phải tỏ ra cương quyết thực chẳng dễ chút nào. Mà bản thân cô cũng bị lôi kéo lắm chứ. Thật là tiến thoái lưỡng nan. Câu chuyện có thể đi theo nhiều hướng.
Rất có thể Đức và Hằng cùng đi đến hôn nhân. Họ bước vào cuộc sống vợ chồng với bao bỡ ngỡ. Thiên hạ nói chồng là chủ gia đình, quyết định mọi việc, lo kinh tế, còn vợ thì chủ yếu là lo việc nhà, chăm sóc con cái, coi sự nghiệp của chồng hơn sự nghiệp của mình. Hằng lo hầu hết mọi việc trong nhà. Buổi đầu, Đức cũng giúp vợ nhưng sau có người hàng xóm chê là “anh hầu vợ”, khiến anh ngượng, nên thôi. Hằng nghĩ đến những hoài bão của mình, rất muốn phấn đấu, nhưng liền được mọi người nhắc nhở: “Đàn bà mà ham công việc là thiếu nữ tính, không giữ được chồng đâu”. Chị lo lắng, rồi cũng quên dần những ước vọng của mình vì đã bắt đầu sinh con, chăm con thì còn đâu thời gian nữa. Chị thầm ghen tị với sự vô lo vô nghĩ, sự thành đạt của chồng, nhưng chẳng bao giờ nói ra, sợ gia đình sứt mẻ.
Cuộc sống cứ trôi qua, Hằng bận bịu ở nhà, Đức dành nhiều thời gian ở cơ quan, với bạn bè. Bản tính tốt, nhưng vì bạn bè lôi kéo, anh dần dần ham rượu bia, thậm chí cả chơi bời trai gái. Anh tặc lưỡi: “Không có tật nào thì không phải là đàn ông”. Chị cố khuyên giải chồng không được thì giận, nhưng đành chịu đựng, vì mọi người vẫn nói: “Phụ nữ là phải vị tha”. Nếu anh đi yêu người khác thì chị phải lo làm đẹp, chiều anh để giữ gìn “hạnh phúc”. Chị thầm nghĩ nếu là chị làm việc đó thì đã bị tất cả mọi người lên án.
Đó là nếu họ cưới nhau. Còn nếu mọi chuyện không mấy tốt đẹp, chẳng hạn Hằng đã “trao thân” cho Đức nhưng hai người không thành hôn, thì có thể mỗi người sẽ một đường. Đức sẽ tấn công một cô gái khác, được cô ấy yêu và chăm sóc. Còn Hằng thì khi yêu lần sau sẽ phải nghĩ đến đau đầu: “Mình có nên nói với anh ấy là mình không còn toàn vẹn không nhỉ?”. Và người yêu cô được xã hội trao cho cái quyền phán xét cô, mặc dù chưa chắc anh đã là một người “trong trắng”.
Vậy đó, đời sinh ra hai đứa trẻ, để rồi chúng có hai cuộc sống khác nhau chỉ vì một là trai, một là gái. Nhiều người bảo là do số phận. Nhưng số phận này do đâu mà có? Chẳng phải ông trời nào quy định, mà chỉ là do các quan niệm xã hội nhào nặn mà nên. Nếu các quan niệm xã hội khác đi thì Đức và Hằng có thể trở nên hai con người với suy nghĩ khác, vai trò khác, tức là số phận của họ thay đổi hẳn.
Mỗi chúng ta có thể có cuộc sống khác với hai nhân vật này, nhưng đều bị ảnh hưởng bởi các quan niệm trình bày trong câu chuyện. Trong hơn 70 triệu người Việt Nam, tất nhiên có rất nhiều người yên ổn trong cái vai trò xã hội giao cho họ, chẳng bao giờ phàn nàn hay muốn sống khác đi, những quan niệm đó đã ăn sâu vào nhận thức của họ. Tuy nhiên, cũng không thể phủ nhận rằng có vô số người phải ngày ngày chịu đựng cái cuộc sống không theo mong muốn thực sự của mình, và còn nhiều người sống vượt ra khỏi cái khuôn khổ định sẵn. Những quan niệm “ngược dòng” không phải là hiếm, rất nhiều bạn trẻ đã tâm sự với nhau những suy nghĩ tiên tiến của mình:
"Em thích một cô gái thông minh, nhanh nhẹn, vì đâu cứ phải dịu dàng nhỏ nhẹ mới là con gái. Một số bạn gái cứ tưởng nhỏ nhẹ, hiền dịu mới là nữ tính nên cố tỏ ra như vậy, nhiều khi đến mức thụ động, không chịu suy nghĩ, ai nói gì cũng dạ vâng. Có khi mình suy nghĩ khác nhưng để tỏ ra dịu dàng họ cũng ừ đại đi. Em nghĩ người phụ nữ dịu dàng vẫn có thể là người biết hài hước, nói chuyện thông minh, yêu say đắm và tỏ tình trước. Em ghét nhất những bạn gái hỏi cái gì cũng “em không biết”. Nhiều khi người thụ động có thể biến thành người giả dối".
(Tùng, 19 tuổi)
"Người yêu em làm khoa học. Anh ấy rất thông minh và hiểu biết nên em rất phục. Làm khoa học không phải là nghề kiếm được nhiều tiền, và em cũng không lấy thế làm điều quan trọng. Khi đi chơi, đứa nào có tiền thì trả thôi. Mà anh ấy hiền lành lắm, không phải là người tháo vát, giải quyết được mọi chuyện nhưng anh ấy rất yêu quý và tôn trọng em".
(Hương, 20 tuổi)
"Sách nào cũng viết là phụ nữ phải chiều chồng, phải ăn mặc cho tinh tươm, rồi phải biết đối xử tinh tế. Cứ theo sách báo viết thì phụ nữ chẳng là gì cả. Cái gì xảy ra cũng do lỗi của phụ nữ. Mất trinh cũng tại chúng ta nhẹ dạ, chồng chê thì tại chúng ta không khéo léo. Buồn nhất là khi chồng đi ngoại tình thì xã hội cũng lại lên án phụ nữ là không biết giữ. Ghen tuông thì bị chê là nóng nảy, mất nữ tính. Gia đình tan nát thì phụ nữ lại bị chê cười là không biết hy sinh, chịu đựng để con cái phải chịu cảnh bơ vơ".
(Lan, 17 tuổi)
"Ai cũng biết là thuốc lá thì có hại, không những hại mình mà hại người khác nữa. Nhưng con trai rất khổ, không thể nào không hút. Mà hút rồi thì sinh nghiện, bỏ rất khó. Người yêu mình thì lo cho mình. Mình thì cố gắng đánh răng thật kỹ trước khi gặp cô ấy, không hút khi có cô ấy ở bên. Nhưng sau này lấy nhau rồi thì không biết thế nào".
(Thắng, 22 tuổi)
"Bạn không biết chứ con trai nhiều khi cũng nhát lắm. Tôi chẳng biết tỏ tình thế nào, run lắm. May mà bạn gái tôi bạo. Chúng tôi đi xem phim, tôi chẳng xem gì. Tôi chỉ muốn nói gì với cô ấy mà không nói được. Thế mà cô ấy biết, cô ấy giúp tôi, cầm lấy tay tôi. Tôi vừa sung sướng vừa thấy như trút được gánh nặng".
(Phương, 27 tuổi)
Mỗi con người đều là tổng hoà của nhiều phần tính cách. Dù là nam hay nữ thì cũng không ai chỉ có cương hay chỉ có nhu, mà cương nhu thường hoà trộn. Xã hội hiện đại công nhận rằng mỗi người đều có quyền làm chủ bản thân và mưu cầu hạnh phúc, không phân biệt địa vị xã hội hay giới tính. Chúng ta hãy cởi bỏ những định kiến cũ kỹ để mỗi cá nhân có thể phát triển hết tiềm năng của mình, thực sự làm người tự do, và cũng để hai giới học ở nhau những điều tốt đẹp, để mối quan hệ giữa 2 giới thêm yêu thương, chân thành và tôn trọng.
Chủ Nhật, 18 tháng 12, 2011
Học gì?(Trương Đình Anh_Tổng giám đốc FPT)
Thứ bảy, ngày 03 tháng năm năm 2008
Học gì?
Sau khi viết entry Hội nhập và "hòa tan", nhiều bạn đã comment về dạy tiếng Anh, tiếng Nhật và đào tạo các kỹ năng trong doanh nghiệp.
Tôi thấy chủ đề này rất hay và muốn chia sẻ ý tưởng.
Quan điểm cá nhân của tôi, doanh nghiệp không phải là trường học để dạy những kiến thức chung chung cho nhân viên. Dạy những kiến thức phông nền (background knowledges) là trách nhiệm của nhà trường.
Doanh nghiệp chỉ đào tạo cho nhân viên những kỹ năng gì mà đã, đang và sẽ mang lại ích lợi lớn hơn cho doanh nghiệp. Trong tiếng Anh, người ta phân biệt là từ "education" - dạy kiến thức chung do trường lớp tiến hành và "training" - dạy kỹ năng có thể do doanh nghiệp tiến hành.
Doanh nghiệp chỉ đào tạo cho nhân viên những kỹ năng gì mà đã, đang và sẽ mang lại ích lợi lớn hơn cho doanh nghiệp. Trong tiếng Anh, người ta phân biệt là từ "education" - dạy kiến thức chung do trường lớp tiến hành và "training" - dạy kỹ năng có thể do doanh nghiệp tiến hành.
Trong thế giới toàn cầu hóa, ngoại ngữ trở nên quan trọng hơn bao giờ hết. Ngoại ngữ đem lại sự tiếp cận thông tin, kiến thức nhanh nhất và mang lại cơ hội làm ăn nhiều nhất. Ngoại ngữ không chỉ cần cho những dịch vụ cao siêu như xuất khẩu phần mềm mà cần cho cả những công việc giản đơn như xuất khẩu người giúp việc.
Một công ty sở hữu những kỹ sư phần mềm nói thạo tiếng Nhật có thể lập tức nâng giá xuất khẩu man/month từ 1,000 - 1,500 USD lên 2,000 - 2,500 USD. Chưa kể khi thông thạo ngôn ngữ của khách hàng, chúng ta hiểu rõ hơn họ muốn gì thì chắc chăn sản phẩm mà chúng ta làm ra sẽ đáp ứng khách hàng tốt hơn, ít phải sửa chữa và tiết kiệm được nhiều các phí tổn "overhead".
Một cô gái đi làm người giúp việc ở các nước trong khu vực chắc chắn sẽ được trả lương cao gấp đôi nếu nói thạo tiếng Anh hoặc tiếng Hoa và sẽ còn nhận được nhiều lợi ích hơn nữa nếu nấu ăn ngon, nếu biết sử dụng các tiện ích trong nhà và làm việc một cách sạch sẽ.
Cách đây ít lâu, anh bạn tôi tình cờ gặp một nhóm các cô gái đi làm người giúp việc về phép, đang chờ nối chuyến ở sân bay Hồng Kông, các cô khoe là được chủ nhà quý lắm vì các cô nấu ăn ngon hơn các đồng nghiệp đến từ Philippine và sạch sẽ các đồng nghiệp đến từ Ấn Độ. Các cô chắc sẽ còn được chủ nhà biệt đãi hơn nhiều nếu nói sõi tiếng Anh như các đồng nghiệp kia.
Do đó, nếu đặt vấn đề một cách cởi mở là nền giáo dục làm sao phải cho đầu ra là những công dân có thể tham dự một cách toàn diện vào thế giới toàn cầu hóa thì sẽ thấy ngành giáo dục Việt Nam đang đi là lạc lối.
Nhìn vào lịch sử, cách đây gần hai trăm năm, chế độ thi cử và quan trường hủ lậu của Nhà Nguyễn với những ông vua suốt ngày thơ phú đối ẩm như vua Tự Đức, với những lớp sỹ phu suốt ngày dài lưng tốn vải trau văn dồi sử đã dẫn đến nước nhà lạc hậu rồi mất nước.
Thứ Hai, 7 tháng 11, 2011
Thứ Hai, 17 tháng 10, 2011
Thứ Năm, 29 tháng 9, 2011
Im lặng đáng sợ
Im lặng đáng sợ |
Thứ năm, 01 Tháng 9 2011 10:23 (Bài viết của Nguyễn Văn Tuấn từ Blog NguyenVanTuan.net) | |
![]() Cách đây vài hôm tôi nhận được email của bạn đọc (là một sinh viên) phàn nàn rằng khi em gửi email đến thầy cô xin tư vấn thì đều không nhận được trả lời. Ngược lại, em này cho biết khi gửi email đến các thầy cô ở nước ngoài thì đều nhận được trả lời, có khi trả lời rất nhanh nữa. Em này hỏi tôi tại sao có sự khác biệt về thái độ giữa thầy cô ngoại và nội như thế. Tôi còn đang suy nghĩ câu trả lời thì chợt liên tưởng đến những chuyện gần đây. Những chuyện này nói lên cái văn hóa tôi gọi là văn hóa im lặng. Văn hóa này rất phổ biến trong giới quan chức. Hình như các quan chức trong các cơ quan công quyền có văn hóa im lặng. Các nhân sĩ gửi thư đề nghị giải thích về tuyên bố của Trung Quốc liên quan đến chuyến đi của đặc phái viên Hồ Xuân Sơn. Đáp lại sự quan tâm đó là một sự im lặng dài từ Bộ Ngoại giao. Rồi đến phần lớn các kiến nghị của nhân sĩ cũng rơi vào … không khí. Thư từ thắc mắc của người dân cũng thế: rơi vào im lặng. Có lần nói chuyện với một cựu đại biểu Quốc hội, chị gọi đó là “im lặng đáng sợ”. Đáng sợ hay không thì tôi không rõ, nhưng thái độ đó chẳng những khó hiểu mà có khi còn gây tác hại. Tác hại thì đã xảy ra. Chúng ta còn nhớ câu chuyện Vietnam Airlines (VNA) thua kiện chỉ vì sự im lặng. Khoảng 5 năm (?) trước, tòa án Ý buộc VNA phải bồi thường cho luật sư Maurizio Liberati gần 5 tỉ lia và đồng thời thanh toán chi phí luật sư gần 60 triệu lia. Sự việc xảy ra chỉ vì VNA khinh thường tòa án, không cử người tham dự phiên tòa. VNA làm ngơ án lệnh. Sự việc dẫn đến tòa án Paris ra lệnh phong tỏa tài khoản VNA. Chẳng biết kết cục câu chuyện ra sao, nhưng đó là một bài học đắt giá cho sự xem thường luật pháp quốc tế. Hôm qua, đọc được một tin đáng chú ý khác về tai hại nghiêm trọng của văn hóa “im lặng đáng sợ”. Tác giả Nguyễn Duy An (làm việc tại tạp chí National Geographic của Mĩ) thuật lại câu chuyện đằng sau vấn đề bản đồ Hoàng Sa làm tốn nhiều giấy mực và công sức của người Việt vào năm ngoái như sau: "Để chuẩn bị cho mình một ít kiến thức căn bản về việc làm bản đồ ở National Geographic, tôi liên lạc với một trong những nhân viên kỳ cựu trong nhóm “Bản Đồ” để hỏi về việc “đổi tên” quần đảo Paracel Islands. Ông ấy đã cho tôi biết một chi tiết rất quan trọng là đối với những vùng đất “đang tranh chấp”, ít nhất là 10 năm một lần, những người phụ trách bản đồ khu vực đó sẽ liên lạc với các chính phủ liên quan để xem có gì thay đổi hay không, nếu hai bên vẫn còn tranh chấp thì cứ theo ấn bản cũ như trường hợp quần đảo Falkland Islands giữa Anh Quốc và Argentina. Riêng quần đảo Paracel Islands “Hoàng Sa” thì hơi đặc biệt vì từ hơn một năm trước, nhóm của ông ta cũng gởi thư xin “xác định” tới cả hai chính phủ Việt Nam và Trung Quốc, nhưng họ không hề nhận được trả lời từ Việt Nam; trong khi đó, Trung Quốc thì ngược lại, không những họ “khẳng định chủ quyền” trên quần đảo Paracel Islands mà còn chính thức mời một nhân viên đến tham quan cho biết thực hư. Ông ta bảo tôi: “Anh nghĩ xem, khi anh tận mắt chứng kiến từ phi trường tới hải cảng, từ các văn phòng hành chính đến chợ búa đều do Trung Quốc điều hành, và họ còn dẫn chứng giấy tờ để chứng minh họ là chủ thì anh nghĩ vùng đất đó thuộc về ai? Bây giờ muốn sửa lại, chúng ta cần có tiếng nói chính thức từ chính phủ Việt Nam!” Đọc những dòng chữ trên, tôi thật sự sốc. Thật khó tưởng tượng nổi tại sao những người có trách nhiệm quá vô cảm trước một vấn đề trọng đại như thế! Với những quan chức vô cảm như thế này thì nguy cơ mất mát và thua thiệt ngoại bang sẽ còn dài dài trong tương lai. Tôi ngạc nhiên không hiểu tại sao có văn hóa im lặng. Có lẽ không ai biết đích xác lí do tại sao các quan chức ta tiết kiệm lời lẽ, nhưng có thể nghĩ đến một số lí do sau đây: Thứ nhất là vô cảm. Nhiều quan chức trong nước chẳng quan tâm đến chủ quyền biển đảo. Tôi đã gặp quan chức cấp tỉnh thậm chí còn chẳng biết Hoàng Sa và Trường Sa là của Việt Nam! Thật ra, cũng không trách họ vì họ thiếu thông tin. Những gì báo chí đưa tin không đầy đủ, và những gì phổ biến trong Đảng thì chưa chắc là những thông tin đa chiều. Trong bối cảnh như thế, nếu một quan chức nhận một công văn từ nước ngoài về Hoàng Sa và Trường Sa, có thể họ nghĩ đó là chuyện của … Trung Quốc. Thứ hai là ngạo mạn và khinh thường. Nhiều quan chức Việt Nam xem người dân như cỏ rác. Thử nhìn qua các quan chức ngồi vào ghế nói chuyện với người dân thì biết. Họ chẳng thèm nhìn mặt dân. Ngôn ngữ thì quát nạt hơn là nói. Có khi còn dùng cả ngôn ngữ tay chân. Còn nhớ một ông phó bí thư (?) tát một bạt tay vào mặt bà cụ khi bà nhờ ông này mua vé. Lại có quan chức nghĩ rằng VN có luật của VN, nên bất chấp luật quốc tế. Có lẽ chính vì suy nghĩ này mà VNA phớt lờ tòa án Ý và phải lãnh đủ hậu quả. Thứ ba là văn hóa làm thuê. Người làm thuê chỉ nghĩ đơn giản làm cho xong việc và việc đáng với đồng lương. Một suy nghĩ rất phổ biến trong giới quan chức là trả lương đến đó thì làm việc đến đó. Họ không suy nghĩ gì ngoài chuyện cơm áo gạo tiền. Họ không cần phấn đấu (mà phấn đấu có khi lại nguy hiểm vì bị đồng nghiệp dèm pha) và chỉ làm việc như cái máy, cứ như đến hẹn lại lên. Tôi gọi đó là văn hóa làm thuê, và kẻ làm thuê thì chẳng cần quan tâm đến chuyện công chúng, vì đối với họ đất nước này ai quản lí chẳng thành vấn đề; vấn đề là có cơm ăn áo mặt cái đã. Đối với những quan chức loại này thì không mong gì họ có lòng với quê cha đất tổ và sự im lặng của họ hoàn toàn có thể hiểu được. Thứ tư là do sợ trách nhiệm. Trong bối cảnh chức vụ đi đôi đặc quyền và đặc lợi, thì có thể hiểu được các quan chức cần bảo vệ chức vụ của mình. Một cách an toàn là không phát biểu gì đụng chạm, hay tốt hơn nữa là … im lặng. Đó là chưa kể tình trạng chồng chéo về trách nhiệm và quyền lực. Một cơ quan có thủ trưởng nhưng cũng có bí thư. Nếu hai người này là một thì thủ tục còn tin giản, nhưng nếu là hai người khác nhau thì có khi cũng phiền phức. Nếu một quan chức muốn phát biểu họ phải xin phép cấp trên, và cấp trên lại xin phép cấp trên, cấp trên xin phép Đảng ủy, và cứ như thế chẳng ai dám nói gì. Thứ năm là đá bóng. Nhìn qua cách hành xử của các cơ quan công quyền, họ có xu hướng “đá bóng”. Người này tìm cách biện minh không nằm trong quyền hạn hay trách nhiệm của mình, rồi đề nghị qua người khác; người khác cũng có lí do để nói không thuộc trách nhiệm của mình. Nhất là vấn đề liên quan với nước ngoài, người ta càng dè dặt, dè dặt đến nổi cuối cùng chẳng ai có động thái gì. Lại có một loại quan chức nghĩ chuyện quốc gia đại sự là chuyện của lãnh đạo, để cho lãnh đạo giải quyết. Còn lãnh đạo thì nghĩ đó là chuyện của lãnh đạo cấp cao hơn. Cuối cùng thì chẳng có ai hành động. Thay vì hành động thực tế thì Việt Nam có những đề nghị và chỉ thị (rất nhiều chỉ thị). Mà khi đã có hàng tá đề nghị lên và chỉ thị xuống thì sự việc coi như “đã rồi”, chẳng còn cứu vãn được tình thế. Thứ sáu là vấn đề tiếng Anh. Phải ghi nhận rằng các quan chức rất kém tiếng Anh. Do đó, đứng trước một văn bản tiếng Anh, họ không hiểu, hoặc hiểu nhưng không tốt lắm, và ngay cả hiểu nhưng không biết cách soạn thảo một văn thư trả lời. Ngay cả quan chức Bộ Ngoại giao cũng hạn chế tiếng Anh thì khó trách các bộ và ngành khác. Từ hạn chế về tiếng Anh dẫn đến thiếu tự tin, và hệ quả là … im lặng. Dù là vô cảm, ngạo mạn, vô trách nhiệm, đá bóng, hay tiếng Anh (hay bất kể lí do gì) thì văn hóa im lặng đáng sợ là không thể chấp nhận được. Ngày nào cái văn hóa đó còn tồn tại thì ngày đó hệ thống hành chính chưa văn minh, người dân vẫn còn khổ, và chủ quyền quốc gia còn bị đe doạ. Người ta có thể cười đùa với quan chức im lặng, nhưng im lặng trước vấn đề chủ quyền tổ quốc bị xâm phạm là một sự phản bội (và người đó không xứng đáng làm người Việt) chứ không phải chuyện đùa được. |
Thứ Sáu, 16 tháng 9, 2011
Chuyên con người và nghề nghiệp
09-09-2011
Chuyên con người và nghề nghiệp
(Bài viết từ Blog Vương Trí Nhàn)
Hai bài sau đây cùng được viết theo tinh thần phơi bày chất nghiệp dư trong con người và cuộc sống hôm nay.
Bài thứ nhất đã in trong Nhân nào quả ấy, 2004 và bài thứ hai trên TBKTSG 4-2010
Ai cũng nói buôn mà chẳng ai biết buôn
Hồi chưa có chủ trương bung ra làm ăn, nhiều người thường nhìn sự buôn bán bằng con mắt tiếc rẻ. Thấy một số người liều lĩnh làm công việc gọi là phe phẩy để rồi kiếm bộn tiền, ta nghĩ có khó gì đâu cái việc buôn ấy, ai buôn mà chẳng được. Có biết đâu vài năm sau, mới thấy việc không dễ nhằn: lừa lọc móc ngoặc đánh quả... là một việc, còn buôn bán theo đúng nghĩa của nó lại khác hẳn.
Một mặt, cái gọi là tư duy con buôn đang xâm nhập vào mọi hoạt động. Trong công việc nghiên cứu khoa học. Trong dạy và học. Trong mối quan hệ giữa người và người, kể cả trong tình yêu, tình bạn. Mặt khác, chính cái việc buôn bán với nghĩa thực của nó, tức phân phối và lưu thông hàng hoá, việc ấy thì lại không mấy ai biết làm cho giỏi. Và đi ra buôn bán với thiên hạ thì người mình thật sự là còn đang rất ngô ngọng.
Quan chức càng không có nghề
Một công việc khác tưởng ai cũng có thể làm được do đó không có người làm giỏi là việc phụ trách quản lý, nói nôm na là việc làm quan. Ở đây cũng có tình trạng tương tự như buôn bán. Tức là ai cũng thích làm, cũng tưởng mình thừa sức làm, trong khi chẳng mấy ai gọi là có nghề trong việc làm quan cả. Chỉ giỏi bảo nhau làm đại đi, còn như giá có ai hỏi làm như thế nào thì chưa chắc đã biết.
Mà không có nghề ở đây thì vừa làm khổ mình, vừa làm khổ người khác, cả cấp trên lẫn cấp dưới.
Nghề càng tưởng dễ thì càng khó
Chuyện thời sự ở nông thôn hiện nay là đi xuất khẩu lao động. Một người bạn tôi có vợ làm phiên dịch cho một công ty Đài Loan kể :
--Chính tuyển người đi phục vụ trong các gia đình lại khó nhất.
Nghe mà thấy bất ngờ. Cũng tương tự như tôi đã bất ngờ khi nghe nói rằng một số tỉnh bắt đầu cử bà con nông dân đi các nước học nghề. Thì ra cũng như nhiểu người, mình hay chủ quan mà nghĩ rằng những việc như làm ruộng hoặc trông nom nhà cửa thì bất cứ ai cũng làm được. Trong khi ấy thì trong xã hội hiện đại, cái gì người ta cũng đưa lên thành bài bản và coi là nghề phải học. Mà dân mình thì rất ngại học.
Học xong chả biết làm gì
Ta thường hay nói môi trường đầu tư ở Việt Nam hấp dẫn mà một trong những lý do tạo nên sự hấp dẫn đó là vì người mình thông minh chịu khó, lại khéo léo, và có văn hoá, dễ tiếp nhận kỹ thuật nước ngoài. Nhưng bản tin của VTV1 sáng 10-3 -2003 đưa tin : Chỉ có 4% người Việt ra nước ngoài ( xuất khẩu lao động ) có tay nghề với nghĩa nghiêm chỉnh.
Cái sự thiếu người có nghề thật ra đâu phải chỉ đến ngày đưa người đi lao động nước ngoài mới biết. Mà lâu nay, mỗi năm hè tới, cả xã hội gần như rung động vì các kỳ thi đại học, thì lại là một dịp nhiều người chép miệng : thi cử căng thẳng nhưng rồi học xong chả biết làm gì. Thừa thầy thiếu thợ. Các trường gọi là đại học quá chật là vì các trường dạy nghề của ta quá yếu.
Giỏi kiếm ăn chứ không phải giỏi nghề
Chuyên con người và nghề nghiệp
(Bài viết từ Blog Vương Trí Nhàn)
Hai bài sau đây cùng được viết theo tinh thần phơi bày chất nghiệp dư trong con người và cuộc sống hôm nay.
Bài thứ nhất đã in trong Nhân nào quả ấy, 2004 và bài thứ hai trên TBKTSG 4-2010
Ai cũng nói buôn mà chẳng ai biết buôn
Hồi chưa có chủ trương bung ra làm ăn, nhiều người thường nhìn sự buôn bán bằng con mắt tiếc rẻ. Thấy một số người liều lĩnh làm công việc gọi là phe phẩy để rồi kiếm bộn tiền, ta nghĩ có khó gì đâu cái việc buôn ấy, ai buôn mà chẳng được. Có biết đâu vài năm sau, mới thấy việc không dễ nhằn: lừa lọc móc ngoặc đánh quả... là một việc, còn buôn bán theo đúng nghĩa của nó lại khác hẳn.
Một mặt, cái gọi là tư duy con buôn đang xâm nhập vào mọi hoạt động. Trong công việc nghiên cứu khoa học. Trong dạy và học. Trong mối quan hệ giữa người và người, kể cả trong tình yêu, tình bạn. Mặt khác, chính cái việc buôn bán với nghĩa thực của nó, tức phân phối và lưu thông hàng hoá, việc ấy thì lại không mấy ai biết làm cho giỏi. Và đi ra buôn bán với thiên hạ thì người mình thật sự là còn đang rất ngô ngọng.
Quan chức càng không có nghề
Một công việc khác tưởng ai cũng có thể làm được do đó không có người làm giỏi là việc phụ trách quản lý, nói nôm na là việc làm quan. Ở đây cũng có tình trạng tương tự như buôn bán. Tức là ai cũng thích làm, cũng tưởng mình thừa sức làm, trong khi chẳng mấy ai gọi là có nghề trong việc làm quan cả. Chỉ giỏi bảo nhau làm đại đi, còn như giá có ai hỏi làm như thế nào thì chưa chắc đã biết.
Mà không có nghề ở đây thì vừa làm khổ mình, vừa làm khổ người khác, cả cấp trên lẫn cấp dưới.
Nghề càng tưởng dễ thì càng khó
Chuyện thời sự ở nông thôn hiện nay là đi xuất khẩu lao động. Một người bạn tôi có vợ làm phiên dịch cho một công ty Đài Loan kể :
--Chính tuyển người đi phục vụ trong các gia đình lại khó nhất.
Nghe mà thấy bất ngờ. Cũng tương tự như tôi đã bất ngờ khi nghe nói rằng một số tỉnh bắt đầu cử bà con nông dân đi các nước học nghề. Thì ra cũng như nhiểu người, mình hay chủ quan mà nghĩ rằng những việc như làm ruộng hoặc trông nom nhà cửa thì bất cứ ai cũng làm được. Trong khi ấy thì trong xã hội hiện đại, cái gì người ta cũng đưa lên thành bài bản và coi là nghề phải học. Mà dân mình thì rất ngại học.
Học xong chả biết làm gì
Ta thường hay nói môi trường đầu tư ở Việt Nam hấp dẫn mà một trong những lý do tạo nên sự hấp dẫn đó là vì người mình thông minh chịu khó, lại khéo léo, và có văn hoá, dễ tiếp nhận kỹ thuật nước ngoài. Nhưng bản tin của VTV1 sáng 10-3 -2003 đưa tin : Chỉ có 4% người Việt ra nước ngoài ( xuất khẩu lao động ) có tay nghề với nghĩa nghiêm chỉnh.
Cái sự thiếu người có nghề thật ra đâu phải chỉ đến ngày đưa người đi lao động nước ngoài mới biết. Mà lâu nay, mỗi năm hè tới, cả xã hội gần như rung động vì các kỳ thi đại học, thì lại là một dịp nhiều người chép miệng : thi cử căng thẳng nhưng rồi học xong chả biết làm gì. Thừa thầy thiếu thợ. Các trường gọi là đại học quá chật là vì các trường dạy nghề của ta quá yếu.
Giỏi kiếm ăn chứ không phải giỏi nghề
Thứ Hai, 18 tháng 7, 2011
ĐỜI KHÔNG CÓ CHÚ SAM - ĐỜI MẤT VUI
ĐỜI KHÔNG CÓ CHÚ SAM - ĐỜI MẤT VUI
(Bài được lấy từ Blog của BS Hồ Hải )
http://bshohai.blogspot.com
Hôm trước ngồi nói chuyện với ông già, bạn vong niên, mà tôi vẫn thường gọi là ông Trùm. Ông bảo, ông đã từng vào tham quan nhà Trắng của chú Sam - dĩ nhiên là chỉ lướt qua bên ngoài, không biết là ông nói dối hay thật - Ở tiền sảnh của nhà Trắng có chú bé hài đồng cầm cu đái vào quả địa cầu. Đó là biểu tượng mà chú Sam nhắc với thế giới còn lại rằng: Chúng mày chỉ là cái bồn cầu của tao! Câu chuyện rượu bia có chút lạc rang này là nói lên biểu trưng của tấm hình đại diện bài viết áp chót cuối năm 2010 của tôi về kinh tế vĩ mô toàn cầu, hòng giúp ai có chút điều kiện kiếm tiền tiêu tết.
Cuối năm là những dịp mua sắm cứ ùn đến cho bất kỳ người dân nào trên quả địa cầu. Thế giới có 2 nền văn hoá trái ngược nhau, nhưng bổ sung cho nhau: Văn hoá du mục và văn hoá nông nghiệp. Hai nền văn hoá ấy tạo ra cách thức tiêu dùng ở những thời điểm khác nhau.
Văn hoá du mục luôn là văn hoá luôn đi trước, đón đầu nhờ vào sự năng động trong tư duy và hành động để đổi mới làm cho cuộc sống thích ứng với những thay đổi về xã hội học. Ngược lại, văn hoá nông nghiệp đặc thù ở tính bảo thủ và vững bền, luôn đi chậm, mà chắc để giữ nét truyền thống, nhưng lại là rào cản cho mọi tư duy đổi mới và phát triển.
Cho nên thời gian tiêu dùng của 2 vùng văn hoá cũng khác nhau. Với các nước có nền văn hoá nông nghiệp, như nước ta có những câu ca dao mà ai cũng được nghe ở thuở thiếu thời: "Tháng giêng là tháng ăn chơi/ Tháng hai trồng đậu, tháng ba trồng cà...". Tức mùa ăn chơi là mùa sau những ngày trừ tịch tính theo mặt trăng. Trong khi đó, các nước có nền văn hoá du mục tháng ăn chơi lại là tháng cuối của một năm tính theo mặt trời, mùa giáng sinh.
Mặt trời và mặt trăng đại diện cho 2 nền văn hoá để tính thời gian, mặc dù theo ông Albert Einstein thì, khi vạn vật di chuyển với vận tốc lớn hơn hoặc bằng vận tốc ánh sáng thì thời gian ngừng trôi. Nhưng âm dương - nước lửa - sáng tối - đàn ông đàn bà, etc... những cặp nhị nguyên cũng là đặc thù văn hoá của loài người. Thuận theo văn hoá là sống an lành, không hiểu văn hoá thì sống trong tăm tối và khó khăn.
Với nền văn hoá du mục, đặc thù của chú Sam, mùa ăn chơi là mùa Chúa giáng sinh. Chú Sam ăn chơi trước khi các nền văn hoá nông nghiệp vào cuộc ăn chơi. Và đây là thời điểm mà các con diều hâu nhỏ cần quan tâm để đầu cơ chờ thời loạn khi chú Sam trở lại quậy phá thế giới để kiếm lãi nhiều hơn nhiều lần chú kiếm lãi bằng buôn vũ khi mà lâu nay đám đông vẫn thường đổ tội cho chú Sam - vua lái súng.
Miên man về văn hoá để đi vào mục tiêu chính bài viết kinh tế vĩ mô toàn cầu cho bà con kiếm tiền tiêu tết. Có một quy luật bất thành văn từ nhiều thập niên nay là: Khi thế giới không khủng hoảng thì giá vàng sau mùa chú Sam nghĩ đông sẽ giảm, và ngược lại. Để giải thích điều này chúng ta sẽ mổ xẻ nó trong những bình luận chi tiết sau bài viết này dành cho bạn đọc. Còn bây giờ, tôi sẽ lý giải một cách có chứng cứ để giải thích tiêu đề bài viết cho bà con ở dưới đây chỉ ở lĩnh vực vàng.
Ai đã từng đọc 2 bài về FED và 3 bài khủng hoảng kinh tế toàn cầu của tôi viết trước đây, và chịu khó tư duy độc lập sẽ thấy rằng có một quy luật mà thế giới phải chấp nhận: Đời không có chú Sam - Đời mất vui. Với lợi thế đồng tiền chung cho thanh khoản toàn cầu, có dự trữ vàng gấp 8 lần anh Ba Tàu, GDP hằng năm hơn 2 lần anh Ba Tàu, nhưng dân số lại chỉ chưa bằng 1/4 anh Ba tàu, etc... Trong khi đó, anh Ba Tàu, một con hổ ngủ đông đang vươn mình thức giấc trong suốt 2 thập kỷ qua với nền kinh tế mới nổi có dự trữ quốc gia xếp hàng thứ nhì sau chú Sam và là đối trọng mới sau chiến tranh lạnh của chú Sam. Chú Sam có thể làm đảo điên thế giới và làm thế giới buồn - vui - giận - hờn - tức tưởi - hạnh phúc khổ đau và ngậm bồ hoàng làm ngọt để chống chọi với những gì chú Sam giở quẻ với anh Ba Tàu.
Anh ba Tàu chịu khó nắm lấy quy luật của chú Sam trong việc tìm ra những yếu tố làm thay đổi giá vàng và những quy luật khác về văn hoá tiêu dùng, về an sinh xã hội của nước Mỹ, etc..., làm lên xuống giá để trú ngụ một niềm tin. Những năm trước, để tăng trữ lượng vàng dự trữ vào dịp chú Sam vắng nhà thì gà bươi bếp. Những dịp đó là những ngày chú Sam nghỉ ngơi ăn chơi. Hãy cứ nhìn biểu đồ vàng ở những thời điểm chú Sam ăn chơi trác táng là như im lìm mơ ngủ. Nhưng khi chú Sam trở lại làm ăn thì cả thế giới cứ lộn ruột, lộn gan lên đầu.
Biểu đồ 1: Vàng tăng giá khi chú Sam làm việc lại sau lễ tạ ơn 2010
Hãy nhìn biểu đồ 1: Hồi đầu tháng 11 năm nay tôi có viết một bài: vàng lên, vàng xuống thấy gì? và có đưa ra một nhận định: "Chú Sam sau kỳ nghỉ Thanksgiving trở lại vàng sẽ lên giá, bà con nào nếu có tiền, nên đầu tư vào vàng để tuần sau kiếm lãi". Và nhận định đó đã đúng khi giá vàng từ 1390USD/oz khi chú Sam nghỉ Thanksgiving tăng vọt chỉ trong 3 ngày lên đến 1460USD/oz. Với 8 chỉ vàng trong 3 ngày thôi bà con có lãi đến 70USD. Kỳ ấy, anh Ba Tàu lừa nước đục thả câu lặng lẽ nhập vàng khi chú Sam làm lễ xá tôi gà Tây.
Biểu đồ 2: Diễn tiến giá vàng ngay sau khi chú Sam nghỉ Đông đón Chúa và anh ba Tàu ra quyết định tăng lãi suất ngân hàng
Thứ Bảy, 14 tháng 5, 2011
“Có 2 tỷ đồng, đầu tư vào đâu?”
Chủ Nhật, 8 tháng 5, 2011
Quy Hoạch Hà Nội nhìn từ tòa nhà 70 tầng KeangNam !
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)